dòng nhớ nguyễn ngọc tư
dòng sông cũ . Mới nhất A-Z Z-A Thứ Năm, 27 Tháng Mười Hai 2018 6:26 CH. Những Bông Hoa Cuối Mùa. Thứ Tư, 26 Tháng Mười Hai 2018 8:28 CH. Người Lính Thủy Quân Lục Chiến bên bờ Bến Hải - Nguyễn Ngọc Ẩn. Thứ Bảy, 22 Tháng Mười Hai 2018 7:00 CH. Pleiku trong nỗi nhớ - Nguyễn
Nguyễn Huy Thiệp, một đời văn chói sáng bởi tài năng độc đáo chứa đựng tư tưởng nhân sinh lay động triệu người, chưa từng nhận được bất cứ giải thưởng nào của Việt Nam. Chỉ khi ông rời khỏi sự sống trần gian, chúng ta mới nhận ra khoảng trống mãi mãi của
Biết bao thương nhớ về người Tâm tư chết đuối ôm vời bóng trăng. Twitter. Rating: ( 0 Rating ) Cuộc tình tật nguyền. Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn 08-10-2022. Bừng con mắt dậy. Nguyễn Ngọc Hoa 08-10-2022. Cuộc tình tật nguyền. Minh-Đạo & Nguyễn Dòng đời. Tiểu Lục Thần
(1) Sau khi bài này được phổ biến lần đầu trên báo Văn Học vào tháng Bảy, 1988, tác giả Nguyễn Ngọc Bích (Washington D.C., USA), dựa vào cách chia của chúng tôi, trong một bài tổng kết văn học cuối năm, đã đề nghị thêm vào đó một dòng văn chương nữ giới, một dòng văn
Bài giảng thiết kế rất chi tiết và đầu tư. DT: Khoảng 4,5 triệu km2. *Gồm 11 nước. *Dân KẾ HOACH BÀI DẠY BÀI 14: CH, KH bỘ KẾT rất mong có bài của tuần 6. để em học Bài giảng rất có tâm, tiến trình hợp lí. cảm Câu 3 phần trắc nghiệm bị sai bạn a
Nhắc đến Nguyễn Ngọc Tư nhiều người nhớ tới Cánh đồng bất tận, nhưng với tôi đây là cuốn hay nhất, ám ảnh nhất của tác giả này. Ngôn ngữ giàu chất điện ảnh, câu chuyện và nhân vật vô cùng ấn tượng, 10 truyện ngắn trong cuốn này khiến tôi đọc không chỉ 1 lần.
App Vay Tiền Nhanh. Tài liệu "Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư" có mã là 351865, file định dạng doc, có 10 trang, dung lượng file 79 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Tài liệu phổ thông > Tổng hợp. Tài liệu thuộc loại ĐồngNội dung Dòng nhớ Nguyễn Ngọc TưTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 10 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Dòng nhớ Nguyễn Ngọc TưNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Dòng nhớ Nguyễn Ngọc TưTrên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Dòng nhớ Nguyễn Ngọc..Bạn có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Dong nho Nguyen Ngoc, đều cho ra kết quả chính xác. Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Dòng nhớ Nguyễn Ngọc Tư" Tài liệu vừa xem
- Truyện ngắn Dòng nhớ của Nguyễn Ngọc Tư đã từng được dựng thành kịch và cải lương cùng tên. Mỗi một tác phẩm chuyển thể đều để lại một dư âm đặc biệt trong lòng người xem. Vì lẽ đó mà cũng chẳng ngạc nhiên khi Bao giờ sông cạn tác giả Hạnh Thúy - biên tập Hoàng Thái Thanh - đạo diễn Ái Như cảm tác từ Dòng nhớ tiếp tục khiến khán giả yêu kịch bồi Bao giờ sông cạn trước tiên cho thấy cách làm kịch chỉnh chu và tỉ mỉ đến từng chi tiết của Hoàng Thái Thanh. Mọi thứ xuất hiện trên sân khấu đều được nghiền ngẫm và chắc lọc. Chiếc xuồng ba lá neo trên sông với những dề lục bình trôi gây ấn tượng mạnh nhất về hình ảnh miền sông nước, bối cảnh chính của truyện ngắn Dòng nhớ, cho dù trong truyện ngắn chỉ nói đến con sông mà không miêu tả hình dáng nó thế nào? Đạo diễn đã sử dụng tính ước lệ vẽ nên hình ảnh gây nhiều ấn tượng. Trên chiếc thuyền bé nhỏ đó là một thân phận bé nhỏ của cô Thà Hoàng Vân Anh. Cái tướng cô Thà đứng khum lưng rặn đẻ xấu xí làm sao nhưng cũng rất chân thật và cảm động. Đứa trẻ đẻ non trên một con xuồng nhỏ ở một bến sông vắng cho thấy thân phận buồn của một kiếp người. Nghiệt ngã hơn, đó là cái ngày mà cha nó bị bắt buộc cưới người đàn bà khác làm vợ. Cảnh trong “Bao giờ sông cạn” - Niềm hạnh phúc nhất thời của người này là nỗi đau của người khácChiếc chiếu bông được viết dòng chữ "Trăm năm hạnh phúc" đặt trong nhà Bà Hai Xuân Hương cho thấy đạo diễn rất hiểu về văn hóa Nam bộ. Nó không chỉ được dùng làm khung nền mà còn cho người xem - nhất là thế hệ trẻ biết rằng đã có một thời kỳ biểu tượng hạnh phúc lứa đôi chính là chiếc chiếu bông đơn giản và mộc mạc. Chi tiết này không xuất hiện trong truyện ngắn Dòng vật ông Út NSƯT Thành Hội, Tư Mắm Tuyết Mai, và Đợi Hùng Thuận cũng là nhân tố mới thuộc về Bao giờ sông cạn. Cái ý tưởng bà mẹ chồng tức bà Hai Xuân Hương khát khao đến một ngày dòng sông sẽ cạn để bà tìm hài cốt của chồng, hay mong muốn tột cùng của Mai Tuyết Thu đến một ngày dòng sông trước nhà bỗng nhiên cạn dòng là sáng tạo của tác phẩm sân khấu. 2. Có thể nói tiếng tát nước ghe dưới sông dội lên nhà của ông Chờ Đoàn Thanh Tài khiến cho mọi người bị “tra khảo thần kinh” là một chi tiết rất đắt trong Bao giờ sông cạn. Tiếng động vốn rất gần gũi với người dân miệt sông nước trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với những con người đã gây nên tội lỗi với người đàn bà đáng tiết Đợi phát hiện ra mình là con trai của người đàn bà mà anh ta rẻ rúng để sau này phải hối hận có phần quá cũ kỹ nhưng nó cũng góp phần tạo nên sự mới mẽ nếu so với tác phẩm văn học gốc. Đây chính là trường đoạn lấy nước mắt khán giả nhiều nhất vì sự cảm thương của tình mẫu tử. Một đoạn cuối đưa cao trào vở diễn lên cao - một phong cách thường thấy của kịch Hoàng Thái Thanh. Tuy nhiên, không phải sáng tạo và chọn lựa nào trong Bao giờ sông cạn cũng hấp dẫn người xem. Nhân vật Tư Mắm nhận nhiệm vụ gây cười để cân bằng lại cảm xúc bi ai hình như là phần gia vị được người đầu bếp sử dụng quá liều. Chi tiết “banh chân dạng háng, hay gãi nách sồn sột” của một người phụ nữ nhà quê đặt nhân vật này vào ranh giới mong manh giữa sự sáng tạo thú vị và phản cảm. Đoàn Thanh Tài dù đã được Hoàng Thái Thanh tạo điều kiện tốt nhất nhưng diễn xuất thiếu tinh tế, đài từ yếu đã làm cho nhân vật Chờ mất đi sức hấp dẫn. Xem toàn cục vở diễn, nhiều người cảm thấy tit nếc là lẽ ra nhân vậày phải sâu lắng hơn, tâm trạng hơn cộng với vẻ ngoài mạnh mẽ của một người đàn ông miền có những điểm chưa hoàn chỉnh, nhưng Bao giờ sông cạn đủ sức tạo nên nhiều cung bậc cảm xúc cho người xem. Qua vở diễn này, một lần nữa Hoàng Thái Thanh khẳng định phong cách riêng của mình, khai thác triệt để dạng kịch tâm lý có chiều sâu chứ không thỏa hiệp với thị hiếu dễ dãi nhằm hướng tới lợi ích kinh doanh. Tam AnhThể thao & Văn hóa
Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, ngiêng ngiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu – Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỉ tỉ ghe bán bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao? Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Đàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông thì đông lắm, người sống trên chợ này hể mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, chị hỏng nghe sao ?Má tôi chẩng hẩng – Vậy ?– Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ ?– Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước tôi cũng khóc nhiều tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt, “Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó, bà chỉ tay ra bến, gần hết đời rồi tao có được vui đâu”.Đó là lúc “ổng”, tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẩm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lỡ, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già thao thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lổ tròn thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông tở phở. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần, ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhểu nhão, lòng lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, “làm gì làm má cũng phải giữ ba”, tôi đùa. Má tôi xua tay – Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, mà, giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà tôi là người của sông. Không phải ông nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, đôi mắt như đang nhìn da diết, mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Tựa như ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu thiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước. Nếu không vướng tầm mắt vào đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên, không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy lồng lộng một khúc sông. Đêm sáng trăng, ngồi trên nhà có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì trảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lỏm bỏm, tiếng nội làu bàu, “vậy ra má đã làm sai cái gì ?” và má tôi tuyệt vọng “Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má ?”.Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một người. Tự ba tôi chọn. Nội tôi dứt khoát không chịu nội có tỉ tỉ lý do, nhưng cái lý do lớn nhất là người phụ nữ đó đã có một đời chồng, ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trãi qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ… mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả những người vắng mặt. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc hai thứ nầy sao lại không thể đi chung. Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi ” Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao ?”Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than – Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút, dì cười – Dà, đêm nay nhiều gió thiệt – Dì vẹt mớ quần áo ngổn ngang trên cái sạp tre – Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đâu mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng, “xấu hơn mình nhiều”. Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Đồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dỡ, vói lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng, “Cha, có trà uống thì còn gì bằng, mà, chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm”. Dì ngước lên cười, “Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó…”. Má tôi hỏi – Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao ?– Dà, cũng được, chị.– Ủa, chồng chị đâu ?– Dà, dì bối rối, ảnh… đi xa lắm.– Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt – Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó, chị, đa số đàn ông đều sao ? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hủ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dỡ là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xếp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều củ kỷ, bạc màu. Má tôi vọt miệng – Ủa, chị có cháu nhỏ à ?Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau lặng. “Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ, nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi… tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài, hoài hoài với con, vía tôi thấy nó cười…” Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại, “trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi… tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi…”Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào – Đàn bà mình sao khổ vậy ?Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà, nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà dành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đâu mặt lại ngủ… Còn người ta, nhớ thương đứt ruột cũng đành ngồi đây ngó lên, giữa đường gặp nhau chỉ nhìn vậy thôi mà không chào hỏi tiếng nào. Đau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chủm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt – Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.– Sớm vậy sao ?– Dạ, tôi thường đi… trước lúc người ta thức…– Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong…– Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi… tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc… khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại “Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi”. Má tôi không nói, quay đi và sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi ít chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hủ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào Đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn gẽ. Má tôi bứt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Mà, chính má tôi cũng không quên cái hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn màu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.… Tới bây giờ má tôi vẫn chưa tìm được dì. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Bây giờ thì ba tôi cũng nằm xuống, ông nằm ở lớp mả thứ ba trên cái liếp chôn cất ông bà. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy. Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.
Mục lục Nguyễn Ngọc Tư là ai? Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm “cánh đồng bất tận” Truyện ngắn “Dòng Nhớ” mang nhiều cảm xúc của Nguyễn Ngọc Tư Tác phẩm “Giao Thừa” đặc sắc của Nguyễn Ngọc Tư “Cải Ơi” Nguyễn Ngọc Tư - Một trong những tập truyện ngắn xuất sắc Một số quyển sách của Nguyễn Ngọc Tư cho những tâm hồn đa cảm Không hoa mỹ, cầu kỳ, các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bình dị, gần gũi và hết sức đời thường như chính con người chị. Thế nhưng chính những nét mộc mạc đó lại là điểm thu hút biết bao tâm hồn người yêu văn chương. 1. Nguyễn Ngọc Tư là ai? Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Năm sinh 1976 Quê quán Cà Mau Tên thường gọi Cô Tư Một số tác phẩm nổi bật “Cánh đồng bất tận”, “Ngọn đèn không tắt”, “Gáy người thì lạnh”,.... Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn thuộc thế hệ 7x. Trước khi bén duyên với công việc viết lách, Nguyễn Ngọc Tư chỉ là một cô gái nông dân bình thường của vùng sông nước Cà Mau. Sau đó, nhờ sự động viên của cha cùng tài năng văn chương và sự đồng cảm với những hoàn cảnh con người vất vả, lam lũ, Nguyễn Ngọc Tư đã bắt tay vào viết những tác phẩm văn học đầu tiên của mình. Ba tác phẩm đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư được đăng tải trên tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau. Ấn tượng với cô gái trẻ có văn phong hết sức độc đáo, chị được nhận vào làm tại chính tạp chí này. Liên tiếp sau đó, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cho ra mắt nhiều tác phẩm với tiếng vang và giải thưởng lớn. Hiện nay, chị đã gia nhập Hội nhà văn Việt Nam và được coi là hiện tượng văn học đặc biệt ở Nam Bộ, một nhà văn của sự mộc mạc và bình dị thôn quê. Đến nay, Nguyễn Ngọc Tư đã có rất truyện được xuất bản, in ấn số lượng lớn như “Ông ngoại”, “Biển người mênh mông”, “Giao thừa”, “Nước chảy mây trôi”, “Cái nhìn khắc khoải”, đặc biệt phải kể đến tập truyện “Cánh đồng bất tận”. 2. Nguyễn Ngọc Tư và tác phẩm “Cánh đồng bất tận” Nguyễn Ngọc Tư cho ra đời tác phẩm“Cánh đồng bất tận” vào năm 2005, nhờ lối hành văn đầy cảm xúc mà tập truyện ngắn này đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng của giới văn học Việt Nam và được rất nhiều bạn đọc đón nhận đến tận ngày nay. “Cánh đồng bất tận” cũng được chuyển thể thành phim vào năm 2010. Những câu chuyện trong “Cánh đồng bất tận” tập trung kể về số phận đầy cay đắng của 4 con người trên một cánh đồng heo hút ở vùng miền quê. Mỗi người một nỗi đau, một câu chuyện khác nhau, nhưng đều đem đến cho bạn đọc sự đồng cảm, thương xót và bùi ngùi xúc động qua lời kể vô cùng chân thật của Nguyễn Ngọc Tư. Những bi kịch trong tác phẩm “Cánh đồng bất tận” dường như khắc họa đời sống bi kịch, khó khăn đến cùng cực của những người dân miền Nam Bộ lúc bấy giờ. Vùng quê nghèo mà những cuộc đời bất hạnh, tủi nhục không có nơi nương tựa, nơi mà con người luôn làm tổn thương chính những người thân của mình chỉ để giải thoát bản thân khỏi những đau đớn, giống như một cánh đồng bất tận không có lối thoát. Đọc tác phẩm bạn sẽ như mường tượng ra cả miền quê ấy mà không cần bất cứ trải nghiệm thực nào. “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư chân thật đến nỗi người ta không dám đọc hết vì những nỗi buồn ấy quá đỗi đau khổ và ám ảnh. “Cánh đồng bất tận” có một cái kết mở, cái kết mà người ta không biết rồi số phận các nhân vật trong truyện sẽ đi đến đâu, nhưng đây lại trở thành cuốn sách gối đầu giường của rất nhiều người, một cuốn sách đau lòng và ám ảnh với bất cứ ai từ lần đọc đầu tiên. Xem thêm Nhà văn Iris Cao và những tác phẩm hay nhất làm nên tên tuổi 3. Truyện ngắn “Dòng Nhớ” mang nhiều cảm xúc của Nguyễn Ngọc Tư “Dòng nhớ” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Ngọc Tư khi khắc họa rõ nét những mảnh đời cơ cực, vất vả. Tác phẩm từng được dựng lại thành một vở kịch dưới cái tên “Bao giờ sông cạn” và chuyển thể thành phim ngắn “Dòng nhớ”, bộ phim cũng từng được nhận giải ““Giải Cánh diều bạc năm 2017”. Tập truyện ngắn gây xúc động mạnh cho bạn đọc bởi câu chuyện tình yêu đầy khó khăn, ngang trái của đôi bạn trẻ Ân và Thà. Nội dung quen thuộc về bi kịch của một người đàn ông với 2 người đàn bà, nhưng lối kể chuyện dung dị, chân thật của Nguyễn Ngọc Tư để mang đến cho tác phẩm “Dòng nhớ” những dấu ấn riêng biệt. 4. Tác phẩm “Giao Thừa” đặc sắc của Nguyễn Ngọc Tư Truyện ngắn "Giao thừa" xúc động Tác phẩm “Giao thừa” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư là tập truyện ngắn được xuất bản vào năm 2003. Tác phẩm là tập hợp của nhiều mẩu truyện ngắn tập trung khắc họa về con người với những mảnh ghép số phận khác nhau. Đặc điểm chung của họ là sự bất hạnh, bế tắc giữa cuộc đời tại mảnh đất Nam Bộ nhưng luôn sống lương thiện, chân chất. Mỗi một câu chuyện trong tác phẩm đều dễ dàng lay động cảm xúc của bạn đọc, từ câu chuyện của người đàn ông chăn vịt mất vợ trong chiến tranh, là câu chuyện chú diễn viên nghiệp dư bị cả làng ghét chỉ vì diễn vai ác quá đạt, đến câu chuyện về những người phụ nữ trong cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc và bình yên thực sự đầy gian khó. Từng mẩu chuyện ngắn trong tác phẩm “Giao thừa” đều nhẹ nhàng, chân thật. Đọc tác phẩm, bạn đọc dường như có thể tưởng tượng ra trước mắt những mảnh đời bất hạnh ấy, để thêm thấu hiểu, thâm trân trọng cuộc sống của bản thân mình. 5. “Cải Ơi” Nguyễn Ngọc Tư - Một trong những tập truyện ngắn xuất sắc “Cải ơi” là một truyện ngắn thuộc tập truyện“Cánh đồng bất tận”, được phát hành năm 2005. “Cải ơi” được đánh giá là một truyện ngắn đậm phong vị về mảnh đất cũng như con người Nam Bộ, mộc mạc, giản dị và rất chân chất. Ngay từ tên truyện với hai chữ “Cải Ơi” đã cho thấy rất nhiều cảm xúc. Tiếng ơi” như lời gọi đầy não nề, tuyệt vọng. Truyện ngắn này của Nguyễn Ngọc Tư kể về hành trình đi tìm con gái tên “Cải” của người cha Năm ròng rã suốt 10 năm trời. Tuy “Cải” chỉ là con riêng của vợ hai ông với người chồng trước, nhưng ông hết lòng yêu thương, bảo vệ con bé. Do làm mất cặp trâu nhà nuôi nên Cải bỏ nhà ra đi, người ta đồn đoán ông Năm đã hại chết con bé rồi đem giấu xác Cải ở một bãi đất trống. Vợ ông, hàng xóm láng giềng đều không tin tưởng ông. Quá đau đớn và thất vọng, ông Năm quyết định lên đường đi tìm Cải. Truyện ngắn “Cải ơi!” gây xúc động mạnh cho bạn đọc bởi tình cha sâu sắc, cùng lời văn mộc mạc nhưng chan chứa cảm xúc. Cái buồn trong “Cải ơi” dường như nhắc nhở bạn đọc thêm trân trọng, biết ơn những đấng sinh thành của mình - những người đã dốc hết sức mình để nuôi nấng chúng ta. Xem thêm Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh và những tác phẩm đưa tên tuổi các diễn viên trẻ lên tầm cao mới 6. Một số quyển sách của Nguyễn Ngọc Tư cho những tâm hồn đa cảm Các tác phẩm đặc sắc khác của Nguyễn Ngọc Tư Những tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư được nhiều bạn đọc yêu mến bởi sự bình dị, chân thật. Dưới đây là tổng hợp một số quyển sách khác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Gáy người thì lạnh Yêu người ngóng núi Cố định một đám mây Ngọn đèn không tắt Bánh trái mùa xưa Hành lý hư vô Đong tấm lòng Không ai qua sông Ngày mai của những ngày mai Khói trời lộng lẫy Sông Đảo Gió lẻ và 9 câu chuyện khác Với tài năng của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã trở thành nhà văn nổi tiếng với biết bao thế hệ người yêu văn chương. Những tác phẩm của chị luôn cuốn hút độc giả bằng lối kể chuyện đậm màu sắc phương Nam, nơi người ta tìm thấy cái nhìn sâu sắc, bao dung hơn cho những phận người. Sưu tầm Nguồn ảnh Internet
“ Dòng nhớ” “… Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát...” Vâng, trên những dòng sông quê hương ngày ngày vẫn âm vang tiếng hát, tiếng hát cất lên trong đầm đìa những giọt mồ hôi, tiếng hát xua đi những nhọc nhằn cho bao mảnh đời cơ cực, chở dùm những nỗi riêng tây, rồi cũng có tiếng hát lặn vào lòng miên man như “dòng nhớ”. Tôi không biết mình đọc truyện ngắn này bao nhiêu lần rồi, rưng rưng, nghẹn ngào với nó bao nhiêu lần rồi! Nhưng lần nào cũng thế, đọc xong, tôi nhớ lắm dòng sông quê ngoại, nước đục ngầu một sắc phù sa, ngọt ngào như dòng sữa, có lẽ nó cũng như “Dòng nhớ” của Nguyễn Ngọc Tư, hiền hòa, tha thiết chảy… Hai bên bờ là những bến sông, mỗi bến có một cái tên riêng, bến nhà tôi là bến Cây Xoài Quỳ, gọi như thế vì cây xoài cổ thụ này ngã ra sông như đang quỳ, hướng về dòng sông mà ngóng đợi. Nó là một nơi lý tưởng để ngồi giặt áo mỗi khi nước lớn, để đong đưa nhìn bóng mình trên làn nước, thấy tóc bay giữa lồng lộng gió hè. “Dòng nhớ” mang về một bến sông có mấy cây tra bông vàng như mật, có hàng mắm già, có đám dừa nước, bụi lức dại và cả những hoa nắng đậu trên mái tóc của một ông già – người giấu trong lòng một mối tình da diết như dòng nước ngày ngày trôi ra biển rồi lặng lẽ quay về vì không nỡ rời xa… Có lần bạn tôi đã cho tôi một phát hiện Trong câu chuyện này không có người xấu, không có người ác, ai cũng tốt cả, mọi người thương quý, yêu mến nhau, vì nhau đến cạn cuộc đời, vậy mà họ lại làm khổ nhau… Ồ! Quả là như vậy! Có khi trong đời, mỗi chúng ta đã làm khổ những người xung quanh bằng chính tình yêu của mình. Bởi tình yêu và nỗi đau thì không biết lấy gì mà đong đếm nên tôi không rõ ai yêu nhiều hơn, đau nhiều hơn trong câu chuyện này. Đó là người mẹ đến cuối đời vẫn không nguôi câu hỏi “Vậy ra má đã làm sai cái gì?”. Đó là người vợ, cứ tần ngần, ngẩn ngơ dưới những bến sông để tìm kiếm một cách vô vọng “tình địch” của mình, cuộc tìm kiếm diễn ra hơn mười mấy năm và cứ thế, vẫn tiếp tục như dòng sông vậy, không ngừng trôi chảy. Tìm để làm gì? Chỉ để thực hiện nỗ lực cuối cùng cho ấm lòng người quá cố, cho chấm dứt cái cảnh ông nằm bên bà mà lòng cứ hướng về sông, để nói một câu “Nếu sống mà không gần được, chừng nào chết,mời dì lên nằm trên đất vườn tôi”. Đó là người chồng cứ chong mắt theo ngọn đèn đỏ ối, buồn hiu và tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác…với đốm lửa đỏ trên đầu điếu thuốc hay đốm lửa cứ rực lên trong tim? vào những đêm gió lớn… Hay đó là người đàn bà mang tên dòng sông “Giang”, có cuộc đời như dòng sông “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, một cuộc đời mà sự thiếu thốn về vật chất – “chiếc áo bà ba mỏng te, nhiều mụn vá” “ tóc đã bạc nhiều, lơ thơ…”, “khuôn mặt đen sạm, nhăn nheo”, “đồ đạc món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng” – không có ý nghĩa gì so với những mất mát trong tình cảm - ít ra hai người đàn ông đã lặng lẽ rời khỏi cuộc đời bà, một đứa con gái nhỏ đã trôi theo dòng nước và những tháng ngày còn nguyên một gia đình đã thoảng qua như sương… người đàn bà ấy lại cứ ngoảnh nhìn về phía sau lưng trong khi ông trời cho cấu tạo đôi mắt của con người ở đàng trước!. Sao bà cứ cày xới lên vết thương của chính mình và những người thân yêu khác? Có những lời của bà khi nhìn mớ quần áo của chồng, con mà nói tôi muốn diễn đạt kiểu Nguyễn Ngọc Tư nghe nhẹ hều mà tủi vô phương "Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi...". Hãy cùng tôi đọc đoạn này "-Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong... - Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à." Thế đấy, nỗi đau trong câu chuyện thật nhẹ nhàng không làm xé lòng ai cả nhưng nó lặn vào trong , êm êm, như một vật gì bén lắm cứa khẽ vào tim, chưa kịp nghe đau thì rỉ thế giới của “Dòng nhớ”, hình như tình yêu không kết thúc cùng đời người, nó chỉ biến đổi về hình thái, con người mất đi nhưng tình yêu thì vẫn tồn tại, vẫn tái sinh … Xếp sách lại rồi, sao tôi cứ nghe đâu đây tiếng hò cất lên khắc khoải – như đời thương hồ - trong bàng bạc gió, trăng “ Bớ chiếc ghe sau, chèo mau em đợiCho khỏi khúc sông này bờ bụi tối tăm……” Lê Uyển Văn
Menu Home About Contact Đọc Truyện ngắn Dòng Nhớ – Nguyễn Ngọc Tư SaiGon Voice “Dòng nhớ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã mang về một bến sông có cây tra bông vàng như mật, có hàng mắm già, có đám dừa nước, bụi lức dại và cả những hoa nắng đậu trên mái tóc của một ông già – người giấu trong lòng một mối tình da diết như dòng nước ngày ngày trôi ra biển rồi lặng lẽ quay về vì không nỡ rời xa… Mời các bạn cùng thưởng thức đứa con tinh thần của SaiGon Voice. Post navigation
dòng nhớ nguyễn ngọc tư